Chịu tổn thất nặng vì lao động đi Hàn bỏ trốn

0
1

Thuyền viên nhảy xuống biển bơi vào bờ bỏ trốn nhưng suýt bị nước cuốn phải nhập viện, sự việc khiến doanh nghiệp chịu tổn thất 2,2 tỷ đồng các loại chi phí.

Trong 16 năm cung ứng thuyền viên tàu cá đi làm việc tại Hàn Quốc, Công ty Hàng hải Liên Minh (Hải Phòng) phải giải quyết 10 vụ lao động bỏ trốn khi tàu cập cảng các nước.

Ông Lê Anh Vũ, Trưởng phòng Hành chính, kể vụ mới nhất năm 2024, thuyền viên quê Thái Bình cũ nhảy xuống biển bơi vào bờ. Anh này không may bị nước cuốn, nhưng được cứu và đưa vào bệnh viện điều trị. Khoản tiền công ty phải chịu lên tới 2,2 tỷ đồng từ viện phí đến đi lại, chi phí làm việc với cơ quan chức năng, vé máy bay, lưu tàu.

“Khi thuyền viên bỏ trốn, tàu thường bị giữ lại để điều tra, giữ càng lâu thiệt hại càng lớn, có khi tới 70.000 USD mỗi ngày”, ông cho biết.





Lao động sát hạch tiếng Hàn đi làm việc theo Chương trình EPS trong các ngành ngư nghiệp, nông nghiệp, sản xuất chế tạo. Ảnh: Ngọc Thành

Lao động sát hạch tiếng Hàn đi làm việc theo Chương trình EPS trong các ngành ngư nghiệp, nông nghiệp, sản xuất chế tạo. Ảnh: Ngọc Thành

Nhưng mất mát lớn nhất là con tàu có thuyền viên bỏ trốn và công ty sẽ bị nhà chức trách sở tại đưa vào “danh sách đen”. Nặng thì tàu không được cấp phép đến nước đó nữa, nhẹ thì phải thuê người giám sát, canh giữ với chi phí rất cao.

Có trường hợp thuyền viên trốn biệt, công ty cùng chủ tàu sau đó phải chi hàng trăm triệu thuê người canh gác 6 lần khi cập bến để ngăn chặn trường hợp tiếp theo. Doanh nghiệp còn phải giải trình với cơ quan chức năng về quá trình tuyển dụng, quản lý người bỏ trốn để làm rõ có thông đồng, thiết lập đường dây đưa người ra nước ngoài trái phép hay không.

Ngoài tiền, công ty và chính người Việt còn mất uy tín rất lớn. Ông Vũ dẫn thực tế nhiều tàu hiện nay không còn muốn thuê thuyền viên người Việt Nam, kể cả là chủ tàu người Việt mà ưa chuộng thuyền viên Ấn Độ hơn. Lao động bỏ trốn không hẳn vì lương thấp, môi trường làm việc khắc nghiệt mà thường nghe theo người quen biết, đồng hương đã ở các nước dụ dỗ lên bờ làm việc.

Tình trạng kéo dài trong nhiều năm nhưng không có chế tài xử lý. Bởi công ty ký hợp đồng với thuyền viên không được phép giữ tiền đặt cọc hay thiết lập điều khoản ràng buộc trách nhiệm bồi thường với người lao động. Doanh nghiệp phải cử người về tận quê nhà vận động gia đình kêu gọi con em hồi hương, nhưng cũng có người bặt vô âm tín không cách nào tìm thấy.

“Chúng tôi kiến nghị nên hình sự hóa hành vi này và buộc người vi phạm bồi thường ở mức cao”, ông Vũ nói.

Việt Nam có khoảng 10.000 lao động đang làm việc tại Hàn Quốc trên các tàu đánh cá gần bờ – chương trình diện visa E10 được hai nước triển khai gần 20 năm. Theo quy định phía Hàn, lao động được làm việc tối đa hai kỳ hợp đồng và mỗi kỳ kéo dài 4 năm 10 tháng. Thu nhập thuyền viên dao động trên 40 triệu đồng mỗi tháng. Song tỷ lệ bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp lên tới 50%, hầu hết là lao động hết hợp đồng lần hai và không trở về nước đúng hạn.

Ngay cả áp dụng biện pháp ký quỹ hàng chục triệu đồng, viết cam kết trước khi đi thì tỷ lệ lao động bỏ trốn vẫn cao. Quảng Trị – một trong 16 tỉnh thí điểm đưa lao động đi làm thời vụ, tức diện visa E8 tại Hàn Quốc có tỷ lệ bỏ trốn gần như cao nhất nước. Bà Trương Thị Thanh Hoa, Phó giám đốc Sở Nội vụ, cho hay địa phương ký kết với hai huyện Jindo và Yeongju, đưa 101 người đi làm nông nghiệp thời vụ. Trong đó, Yeongju có 41 người đi làm việc thì 36 người bỏ trốn tức 88% vi phạm hợp đồng và cư trú bất hợp pháp tại Hàn.

Theo bà, chi phí xuất cảnh thấp trong khi thu nhập bình quân khoảng 40 triệu đồng với thời hạn nửa năm nên số lao động đăng ký luôn vượt quá nhu cầu. Các khâu từ đàm phán, tuyển chọn, kiểm tra sức khỏe, định hướng kỹ năng nghề nghiệp đều thông suốt, vấn đề chỉ phát sinh khi lao động đặt chân sang xứ Hàn. “Việc bỏ trốn một phần do ý thức và có tổ chức. Người lao động thậm chí chưa sang đến nơi đã có người liên hệ hay xuống sân bay chỉ vài ngày sau là bỏ trốn, thường là đồng hương lôi kéo nhau đi”, bà kể.

Lãnh đạo Sở Nội vụ cho biết chính quyền đến từng gia đình vận động kêu gọi con em về nhưng cha mẹ nói đã làm hết cách con vẫn không chịu hồi hương. Thu nhập xứ người cao, ở quê không làm gì ra gần trăm triệu mỗi tháng. Dấu đỏ bảo lãnh của chính quyền thôn xã kèm chữ ký lao động và gia đình dày đặc trong các bản cam kết song tỷ lệ bỏ trốn vẫn cao. Trong khi có những địa phương miền núi phía Bắc chỉ cần một tờ cam kết viết tay của trưởng bản bảo lãnh mà người lao động hết hạn vẫn quay về.

Địa phương không thể tìm cách trục xuất con em về trong khi biện pháp ký quỹ, chống trốn gần như không hiệu quả, theo bà Hoa. Trước sáp nhập, mức ký quỹ của lao động tỉnh Quảng Bình (cũ) là 36-50 triệu đồng. Nhưng bà nhận định khoản này nâng lên 200-300 triệu đồng thì lao động vẫn sẵn sàng bỏ. Họ chấp nhận mất vì xác định ra ngoài đi làm lâu năm kiếm thu nhập cao gấp nhiều lần khoản mất. Cơ chế chưa có nên khoản tiền 1,3 tỷ đồng ký quỹ của lao động vi phạm còn tồn đọng suốt bốn năm qua chưa cách nào xử lý.





Lao động thời vụ nông nghiệp tại Hàn Quốc. Ảnh: Nam Cường

Lao động thời vụ nông nghiệp tại Hàn Quốc. Ảnh: Nam Cường

Theo lãnh đạo Sở Nội vụ Quảng Trị, cần có biện pháp chống trốn mạnh hơn, đủ răn đe như thế chấp tài sản đủ lớn hoặc áp dụng biện pháp hình sự. Sở Nội vụ từng đề xuất giải pháp thế chấp tài sản song các cơ quan có thẩm quyền không đồng ý vì luật chưa quy định.

Bà Hoa cho rằng thị trường “có cầu ắt có cung”, người lao động bỏ ra ngoài một phần còn do doanh nghiệp Hàn Quốc tuyển dụng loại hình lao động này. Bà đề xuất Bộ Nội vụ sớm trao đổi với phía Hàn xử lý nghiêm cả người bỏ trốn lẫn chủ doanh nghiệp tuyển dụng. Tình trạng kéo dài vừa ảnh hưởng uy tín địa phương vừa thu hẹp cơ hội của những người ở đợt sau nếu vào danh sách bị hạn chế xuất cảnh.

Bà đề xuất thêm cần có cơ chế đảm bảo quyền lợi cho lao động Việt Nam đi làm thời vụ về lương, đãi ngộ lẫn thời gian làm việc. Sở nhận đơn lao động phản ánh lương thỏa thuận khoảng 2.000 USD làm 8 tiếng, song thực tế chi trả thấp hơn chỉ 1.600 USD, thời gian làm 12 tiếng trong thời tiết khắc nghiệt. Lao động không chịu nổi áp lực nên phải về nước trước hạn.

Thống kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước, tình trạng lao động thời vụ vi phạm hợp đồng, cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc “đáng lo ngại”. Trước khi đi, lao động và gia đình ký cam kết bảo lãnh có xác nhận của chính quyền địa phương song số lượng trốn vẫn cao, như Cần Thơ 46 người, Hưng Yên 39, Quảng Trị 35, Cà Mau 34, Ninh Bình 29, Đồng Tháp 28, Đăk Lăk 21.

Cơ quan quản lý đánh giá chi phí là vấn đề đáng bàn, khi có những hợp đồng thời vụ chỉ 8 tháng nhưng người đi phải đóng phí trên 65 triệu đồng. Chi phí tạo sức ép, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến vi phạm bỏ hợp đồng ra ngoài cư trú bất hợp pháp.

Quyền cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước Vũ Trường Giang thừa nhận tỷ lệ lao động bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp cao đang trở thành điểm nghẽn đưa lao động đi Hàn Quốc. Thời gian tới, cơ quan quản lý sẽ cắt giảm thủ tục hành chính song sẽ tăng giám sát doanh nghiệp trong tuyển chọn, đào tạo và thu phí lao động nhằm giảm chi phí xuất cảnh, hạn chế ra ngoài làm việc. Đơn vị này đề xuất Bộ Nội vụ trao đổi với phía Hàn Quốc tăng quản lý chống trốn, kiểm tra, xử phạt nghiêm chủ doanh nghiệp tiếp nhận lao động bất hợp pháp, truy quét lao động bỏ trốn, đồng thời có cơ chế hỗ trợ lao động về nước đúng hạn.

Việt – Hàn trải qua hơn 30 năm hợp tác cung ứng và sử dụng lao động, với mức lương cơ bản 1.500-1.800 USD mỗi tháng. Trong đó, lao động Chương trình EPS khoảng 42.500 người làm việc trong các ngành sản xuất chế tạo, nông nghiệp, ngư nghiệp, xây dựng, đóng tàu; hơn 13.000 lao động chuyên môn kỹ thuật bậc cao; 10.000 thuyền viên nghề cá; hơn 7.000 lao động thời vụ nông, ngư nghiệp.

Hồng Chiêu – Lê Tân





Adblock test (Why?)