Chỉ cần điện thoại báo pin yếu dưới 20%, Quốc Huy, 29 tuổi, đã cảm thấy tim đập nhanh, bồn chồn như sắp bỏ lỡ một cơ hội quan trọng.
Là nhân viên kinh doanh bất động sản ở Tây Ninh, Huy phụ thuộc vào điện thoại để liên lạc với khách hàng, kiểm tra email, theo dõi các nhóm chat nội bộ. “Chỉ cần điện thoại tắt nguồn hoặc mất sóng vài phút, tôi đã tưởng tượng ra cảnh khách hàng không liên lạc được, hoặc đồng nghiệp gửi thông tin quan trọng mà mình không biết”, Huy chia sẻ.
Ngoài công việc, Huy còn sử dụng điện thoại để lướt mạng xã hội, xem tin tức, và chơi game online để giải trí. Tuy nhiên, anh thừa nhận rằng mình gần như không thể rời mắt khỏi màn hình, ngay cả khi ăn cơm cùng gia đình. “Mẹ tôi từng giận vì tôi vừa ăn vừa trả lời tin nhắn công việc, nhưng tôi không dừng được. Tôi sợ nếu không phản hồi ngay, mình sẽ bị đánh giá là thiếu trách nhiệm”, anh nói.
Tình trạng này khiến Huy thường xuyên căng thẳng, mất ngủ, và cảm thấy kiệt sức vì luôn trong trạng thái “phải sẵn sàng” với chiếc điện thoại. “Tôi biết mình đang quá phụ thuộc, nhưng cứ nghĩ đến việc không có điện thoại là tôi hoảng loạn”, Huy tâm sự.
Tương tự, Thảo Linh, 18 tuổi, một sinh viên nhất tại TP HCM nhận ra mình không thể rời xa điện thoại khi tham gia một buổi cắm trại do trường tổ chức, nơi cô buộc phải để điện thoại trong lều để tham gia các hoạt động nhóm. Chỉ sau 30 phút không cầm điện thoại, Linh đã cảm thấy bứt rứt, liên tục nhìn về phía lều và lo lắng rằng mình có thể bỏ lỡ tin nhắn từ bạn bè hoặc thông báo từ các nhóm học tập trên mạng xã hội.
Linh có thói quen chụp ảnh mọi khoảnh khắc trong ngày, từ bữa sáng đến cảnh hoàng hôn, và đăng lên Instagram hoặc TikTok ngay lập tức để nhận lượt thích và bình luận. “Tôi cảm thấy như mình cần phải chia sẻ để mọi người biết tôi đang làm gì. Không đăng bài, tôi thấy như mình bị lãng quên”, cô nói. Khi không có điện thoại, Linh cảm thấy “trống rỗng” và không biết phải làm gì để giết thời gian.
Ngay cả khi ở nhà, Linh luôn giữ điện thoại trong tầm tay, kể cả khi đang xem phim hay học bài. Cô thường xuyên bị phân tâm bởi thông báo từ các ứng dụng, dẫn đến việc học tập kém hiệu quả và hay quên deadline bài tập. “Có lần tôi thử tắt thông báo để tập trung, nhưng chỉ được 15 phút là lại bật lên vì sợ bỏ lỡ điều gì đó quan trọng”, Linh kể. Dần dần, cô nhận ra mình ngày càng lo âu, dễ cáu gắt, khó tập trung vào bất kỳ việc gì nếu không có điện thoại bên cạnh.
Nhiều người không dám rời mắt điện thoại dù chỉ một phút, gây nhiều tác hại lên sức khỏe như mất ngủ, trầm cảm, rối loạn lo âu. Ảnh: CNBC
Trường hợp như Quốc Huy và Thảo Linh được chuyên gia tâm lý chẩn đoán mắc hội chứng Nomophobia, viết tắt của “no mobile phone phobia”, là hội chứng lo âu liên quan đến việc không có điện thoại di động bên cạnh.
Theo báo cáo của công ty đầu tư mạo hiểm Kleiner Perkins Caufiels & Byers (Mỹ), trung bình một người mở khóa điện thoại 150 lần mỗi ngày. Dữ liệu khác từ SecurEnvoy cũng chỉ ra đến 66% dân số thế giới có dấu hiệu mắc chứng nomophobia; 74% người Mỹ cảm thấy khó chịu khi để điện thoại ở nhà và 46% người khác nói không thể sống thiếu điện thoại.
Tại Việt Nam, tình trạng này cũng đang trở thành một vấn đề đáng lo ngại. Một khảo sát năm 2022 cho thấy khoảng 73% thanh niên cảm thấy lo lắng khi không có điện thoại, và 61% trong số họ cho biết họ thường xuyên kiểm tra điện thoại ngay cả khi không có thông báo.
Sự phụ thuộc vào điện thoại ngày càng gia tăng, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, dẫn đến những tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần và các mối quan hệ xã hội.
Theo Thạc sĩ Tâm lý Lâm sàng Vương Nguyễn Toàn Thiện, Giám đốc chuyên môn Trung tâm Tham vấn và trị liệu tâm lý Lumos, hội chứng nomophobia ảnh hưởng đến nhiều lứa tuổi khác nhau.
Ở trẻ em dưới 6 tuổi, mặc dù nomophobia chưa phổ biến, nhưng sự tiếp xúc sớm với điện thoại có thể dẫn đến thói quen phụ thuộc vào thiết bị cho giải trí và giáo dục, chủ yếu do trẻ bắt chước hành vi từ người lớn. Trẻ em 6-12 tuổi có thể thấy lo lắng khi không có điện thoại bên cạnh, vì chúng thường sử dụng thiết bị để chơi game, xem video yêu thích, và kết nối các mối quan hệ.
Thanh thiếu niên 12-17 tuổi thường cảm thấy áp lực phải duy trì sự hiện diện trực tuyến và kết nối xã hội, dẫn đến việc hình thành sự phụ thuộc mạnh mẽ hơn với thiết bị di động. Người trưởng thành phải dùng điện thoại thường xuyên do tính chất công việc và đời sống xã hội hiện đại. Đặc biệt trong môi trường làm việc áp lực cao, khi họ cần duy trì liên lạc liên tục với gia đình và đồng nghiệp.
Bên cạnh những lý do nêu trên, nomophobia có liên quan nhiều đến cách thức tương tác liên cá nhân, nội dung số, bối cảnh văn hóa gia đình và xã hội.
Theo thạc sĩ Thiện, biểu hiện của nomophobia rất đa dạng và thường xuất hiện khi người dùng không có điện thoại bên cạnh. Người mắc phải có thể cảm thấy lo lắng, bồn chồn và khó chịu khi không thể tiếp cận thiết bị của mình. Họ có thể thường xuyên kiểm tra túi hoặc tìm kiếm điện thoại, ngay cả khi biết rằng không có nó. Một số người còn trải qua cảm giác hoảng loạn hoặc stress, đặc biệt trong những tình huống như quên điện thoại ở nhà hoặc khi thiết bị hết pin.
“Nomophobia không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần mà còn có thể dẫn đến những vấn đề sức khỏe thể chất nghiêm trọng”, thạc sĩ Thiện nói, thêm rằng hội chứng này tạo ra một vòng luẩn quẩn mà người mắc khó có thể thoát ra.
Cụ thể, những người mắc hội chứng này thường trải qua cảm giác lo âu, căng thẳng và bồn chồn khi không có điện thoại bên cạnh, dẫn đến các vấn đề về giấc ngủ và sự tập trung. Sự phụ thuộc vào điện thoại có thể gây ra cảm giác cô đơn và mất kết nối với người khác, làm giảm chất lượng các mối quan hệ xã hội.
Việc dành quá nhiều thời gian trên điện thoại có thể dẫn đến các vấn đề như mỏi mắt, đau cổ, đau vai, đau khớp cổ tay, và các vấn đề liên quan đến tư thế. Ngoài ra, việc thiếu hoạt động thể chất do ngồi lâu bên thiết bị điện tử cũng có thể làm tăng nguy cơ béo phì và các bệnh lý liên quan đến tim mạch.
Nghiên cứu của Đại học Ben-Gurion (Israel) năm 2017 cũng cho biết sau 3 tháng sử dụng điện thoại liên tục, người dùng thường gặp các vấn đề về suy giảm tư duy logic và khả năng thích ứng với xã hội. Các ảnh chụp cộng hưởng từ MRI cũng cho thấy người có tần suất dùng smartphone cao dễ bị gây tổn thương đến vùng hoạt động não ở thùy não bên phải.
Giới hạn thời gian sử dụng mỗi ngày là một trong những cách giúp cai nghiện các thiết bị thông minh. Ảnh minh họa: Addiction Center
Hiện, việc chẩn đoán hội chứng nomophobia thường dựa trên các triệu chứng và hành vi của người mắc. Các chuyên gia tâm lý sử dụng bảng hỏi hoặc công cụ đánh giá để xác định mức độ lo âu và phụ thuộc vào điện thoại. Mặc dù chẩn đoán này không chính thức như các rối loạn tâm lý khác, nhưng giúp định hình các biện pháp can thiệp cần thiết.
Về điều trị, các phương pháp chính bao gồm tư vấn tâm lý, đặc biệt là liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) giúp người mắc nhận thức về sự phụ thuộc của mình và thay đổi hành vi. Người bệnh cũng được khuyến khích thiết lập thời gian cụ thể để sử dụng điện thoại và tham gia vào các hoạt động không liên quan đến công nghệ.
Bên cạnh đó, hội chứng này rất có thể là một hệ quả thứ phát của việc suy giảm và mất kết nối với các mối quan hệ liên cá nhân chất lượng, từ đó các tiếp cận như Tâm động năng, Hệ thống có thể hỗ trợ đào sâu và “giải quyết căn nguyên” vấn đề.
Giáo dục và nâng cao nhận thức về tác động tiêu cực của việc phụ thuộc vào điện thoại là rất quan trọng, đồng thời khuyến khích tham gia vào các hoạt động thể chất để giảm stress và tăng cường sức khỏe tổng thể. Những phương pháp này không chỉ giúp người mắc cải thiện sức khỏe tâm lý mà còn hỗ trợ họ xây dựng lại các mối quan hệ xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Người bệnh có thể thực hiện một số biện pháp để chế ngự nỗi sợ, sự lo lắng và bất an khi không sử dụng điện thoại. Đầu tiên, việc thiết lập thời gian sử dụng điện thoại cụ thể và tuân thủ quy tắc này sẽ giúp tạo ra thói quen tốt hơn. Nên thử các hoạt động khác như đọc sách, tập thể dục, hoặc tham gia các sở thích không liên quan đến công nghệ để giảm bớt cảm giác phụ thuộc và tăng kết nối với bản thân, người khác.
Ngoài ra, việc thực hành các kỹ thuật thư giãn như thiền, yoga hoặc hít thở sâu cũng có thể giúp kiểm soát lo âu. Kết nối với bạn bè và gia đình qua các hoạt động ngoại tuyến, như đi dạo hoặc tham gia các sự kiện xã hội, cũng rất quan trọng để xây dựng các mối quan hệ mà không cần đến điện thoại. Việc ghi chú lại những cảm xúc và suy nghĩ trong một cuốn nhật ký có thể giúp người bệnh nhận diện và hiểu rõ hơn về nỗi sợ hãi của mình, từ đó tìm ra cách đối phó hiệu quả hơn.
Cuối cùng, nếu nỗi sợ, sự lo lắng và bất an ảnh hưởng đến chất lượng sống và cá nhân không thể tự quản lý, người bệnh cần sự hỗ trợ chuyên môn từ bác sĩ và chuyên viên tâm lý.
Mỹ Ý